Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Việt Nam không cần đa nguyên, đa đảng?

Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá CNXH, trước hết là trên lĩnh vực tư tưởng là vấn đề có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam, là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Hiện nay, các TLTĐ tăng cường hoạt động phá hoại tư tưởng đối với Việt Nam. Mục tiêu của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS, hướng Việt Nam theo con đường XHCN. Để thực hiện được âm mưu đó, các TLTĐ trong nước đã câu kết với các “Trung tâm phá hoại tư tưởng”, các chuyên gia chiến tranh tâm lý ở nước ngoài, huy động tối đa lực lượng, phương tiện tuyên truyền, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, trong đó chúng đòi Việt Nam phải thực hiện đa nguyên, đa đảng.
Đa nguyên chính trị xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu tranh bảo vệ sự đa dạng, bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản, là một khuynh hướng xã hội – triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Hệ thống đa đảng là hệ thống mà ở đó có nhiều đảng chính trị có khả năng điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau.
Việt Nam không chấp nhận đa nguyên, đa đảng vì những lý do sau:
- Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là chế độ chính trị của thể chế XHXN.
Đa nguyên chính trị xuất hiện khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong xã hội. Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa ban đầu, trở thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, tổ chức độc quyền và là bình phong “dân chủ” che đậy sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản.
Khi CNXH xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư tưởng để giai cấp tư sản chống lại các nhà nước XHCN, phong trào công nhân và các trào lưu tiến bộ trên thế giới. Bằng việc đòi mở rộng quyền tự do dân chủ đã thực hiện chế độ đa đảng nhằm vô hiệu hóa và từng bước đẩy ĐCS ra khỏi vị trí lãnh đạo xã hội.
- Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không đảm bảo được dân chủ đích thực.
Bản chất của dân chủ là mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Không phải là cứ thực hiện đa đảng, nhiều đảng cạnh tranh thì sẽ dân chủ. Một ví dụ điển hình, người Mỹ luôn hô hào nước họ có “tự do”, “dân chủ” thực sự, người dân được tự do biểu tình, báo chí tự do phanh phui những chuyện nhạy cảm, các đảng phái cạnh tranh, hạ uy tín lẫn nhau. Nhưng điều đó không phải là bản chất thực sự của dân chủ. Đa đảng của nước Mỹ thực chất chỉ là một đảng, là sự cầm quyền của đảng tư sản; dân chủ ở Mỹ là dân chủ tư sản, không phải là dân chủ của đa số; thực chất đa đảng đối lập trong xã hội tư sản chỉ là nhằm mục tiêu đảm bảo quyền lợi cho giai cấp tư sản.
Dân chủ không phụ thuộc vào cơ chế độc đảng hay đa đảng mà nó phụ thuộc vào bản chất của chế độ cầm quyền phục vụ cho giai cấp nào.
- Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định Việt Nam không cần đa đảng.
Tháng 8/1945, ĐCS Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Toàn bộ cách mạng Việt Nam là do ĐCS Việt Nam lãnh đạo. Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn ĐCS Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất của mình.
- ĐCS Việt Nam – một chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã và đang xây dựng đất nước vững mạnh, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của ĐCS, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã đem lại những quyền cơ bản cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. Đó là độc lập, tự do cho dân tộc, quyền bình đẳng với các quốc gia trên thế giới.
- Dư luận quốc tế và nhân dân các nước dân chủ, tiến bộ trên thế giới đánh giá cao, ủng hộ ĐCS và chế độ nhất nguyên ở Việt Nam.
Nếu Việt Nam thực hiện đa đảng thì đất nước sẽ lâm vào cảnh hỗn loạn, mất ổn định, ĐCS mất vai trò lãnh đạo xã hội, Việt Nam không còn là đất nước phát triển theo con đường XHCN, mọi thành quả cách mạng sẽ bị tiêu tan. Điển hình là bài học đau xót về thực thi dân chủ sai nguyên tắc ở Liên xô trong thời gian cải tổ. Những đơn thuốc “công khai hóa”, “dân chủ hóa”, “đa nguyên chính trị” được đưa ra nhằm cải tổ chủ nghĩa xã hội lại tạo thời cơ, điều kiện thuận lợi cho các thế lực chống đối hoạt động ráo riết hơn, dẫn đến hậu quả tất yếu là chủ nghĩa xã hội ở Liên xô đã sụp đổ.
Có thể nói, ĐCS Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. (Điều 4 – Hiến pháp 1992)
Dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Trong thời gian tới cần tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng để đưa con thuyền cách mạng vững bước tới tương lai. Nguồn: tiengnoicuadan2012

TRẦN ANH KIM – CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ


Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Những Mẩu Chuyện Bên Lề Hội Nghị Paris

Tiểu sử Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh tại thôn Địch Lễ, xã Nam Vân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Tham gia các hoạt động cách mạng (tổ chức bãi khóa, dự lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, lãnh đạo phong trào đấu tranh của học sinh...) và bị Pháp bắt giam hai lần (1930-19361939-1944). Sau khi được thả tự do lần thứ hai, ông trở về Hà Nội hoạt động và trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1944 ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1948, ông vào miền Nam Việt Nam làm Phó Bí thư, kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Bộ cho tới Hiệp định Genève được ký kết năm 1954.
Sau khi tập kết ra Bắc năm 1955, ông được bầu vào Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Việt Nam) và đắc cử. Đầu năm 1968, ông trở lại miền Nam làm Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam một thời gian ngắn. Đến tháng 5 cùng năm, ông làm cố vấn đặc biệt cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, bàn về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Các năm 1956-1973, 1976-1982 Trưởng ban tổ chức TW. Thường trực Ban Bí thư 1982-6/1986. 12/1986 Cố vấn Ban Chấp hành TW.
Ông được tặng giải Nobel năm 1973 cùng với Henry Kissinger vì thương thảo thành công Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, nhưng ông từ chối nhận giải với lý do hòa bình vẫn chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam.
Ông cũng là một nhà thơ với một số tập thơ như Trên những nẻo đường (1956), Đường ngàn dặm (1977), Nhật ký đường ra tiền tuyến (1978), Thơ Lê Đức Thọ (1983).
Ông là anh ruột của Thượng tướng Đinh Đức Thiện (cha đẻ của đường mòn Hồ Chí Minh) và của Đại tướng Mai Chí Thọ, Đại tướng Công an Nhân dân đầu tiên của Việt Nam.

Những mẩu chuyện bên lề Hội nghị Paris

Ông Henry Kissinger trong một giây "tự nhiên chủ nghĩa".
Trong gần 5 năm đàm phán về Việt Nam tại Paris, ngoài những chuyện "đao to búa lớn", còn có không ít những tình huống thú vị đã trở thành giai thoại như chuyện ông Kissinger bị "ăn" mắng, chuyện cái nhẫn của ông Lê Đức Thọ...
Trên bàn thương thuyết với Mỹ, hai ông Xuân Thủy và Lê Đức Thọ quả là cặp bài trùng, lúc người này “nhu” thì người kia “cương” và ngược lại. Trong đó, phần nhiều cố vấn Lê Đức Thọ sắm vai “cương”. Không ít lần ông đã đập bàn, nổi cơn thịnh nộ ngay trước mặt ông Kissinger. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ bị rơi vào tình huống “quá đà”.
Ngày 21/8/1968 diễn ra một cuộc gặp bí mật giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH),
Kissinger - Lê Đức Thọ và cuộc đấu trí tại Paris.
Kissinger - Lê Đức Thọ và cuộc đấu trí tại Paris.
giữa một bên là Xuân Thủy, Lê Đức Thọ và một bên là Averell Harriman (nhà ngoại giao kỳ cựu của Washington), Cyruc Vance (luật sư, cựu thứ trưởng Quốc phòng Mỹ). Hôm đó, nụ cười thường trực của ông Xuân Thủy bỗng biến mất khi đại diện Mỹ Harriman đơn phương đòi có đại diện của chính quyền Sài Gòn trên bàn đàm phán.
Hà Nội từ chối thẳng thừng đề nghị trên của Washington và ngay lập tức Harriman tuyên bố: “Nếu thế bom sẽ lại rơi trên đầu các ông”. Bộ trưởng Xuân Thủy mặt đanh lại: “Ông dọa đấy à? Ném bom trở lại sao? Chúng tôi sẵn sàng đánh lại!”. Còn cố vấn Lê Đức Thọ có vẻ “nhu” hơn mà rằng: “Ông dọa bằng chiến tranh không được đâu! Chúng ta đã đánh nhau nhiều năm rồi, còn lạ gì nhau”. Đại diện Mỹ Harriman ngồi lặng thinh một lát rồi lẩm bẩm: “Tôi xin rút cái câu nói bom lại rơi trên đầu các ông...”
Lê Đức Thọ đã “mắng” Kissinger
Ngày 8/1/1973, vòng đàm phán bốn bên tại Paris được nối lại sau trận "Điện Biên Phủ trên không", sau khi Mỹ xoay ngược những gì đã thỏa thuận khiến hiệp định ngày 20/10/1972 không thể ký kết được. Trở lại Paris với tư cách là người chiến thắng, ông Lê Đức Thọ đề nghị cả đoàn VNDCCH không ra cửa đón đoàn Mỹ như thông lệ.
Cố vấn Lê Đức Thọ gặp Kissinger.
Cố vấn Lê Đức Thọ gặp Kissinger.
Chưa bao giờ người ta thấy cố vấn Lê Đức Thọ nổi nóng như buổi sáng hôm đó. Ông trút hàng loạt những từ như "lừa dối", "ngu xuẩn", "tráo trở", "lật lọng"… lên đầu ông Kissinger, khiến ông này không nói được gì cả. Mãi sau ông ta mới nhỏ nhẹ đề nghị cố vấn Lê Đức Thọ hãy nói khe khẽ thôi, không các nhà báo bên ngoài nghe thấy lại đưa tin là ông đã mắng người Mỹ. Nhưng ông Lê Đức Thọ vẫn không buông tha: “Đó là tôi chỉ mới nói một phần, chứ còn các nhà báo họ còn dùng nhiều từ nặng hơn nữa kia!”.
Lần khác, ông Kissinger lại hỏi: "Bây giờ ông cố vấn đàm phán với tôi nói như mắng tôi. Thế còn sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình rồi thì ông cố vấn mắng ai? Ngài có mắng cán bộ của mình như mắng tôi không?". Cố vấn Lê Đức Thọ điềm nhiên: “Tôi chỉ nói lên tiếng nói của nhân dân tôi thôi. Cán bộ của tôi có quay quắt lật lọng tráo trở đâu mà tôi phải mắng!".
Chiếc nhẫn đặc biệt của cố vấn Lê Đức Thọ
Trong các cuốn hồi ký, ông Henry Kissinger từng nhiều lần nhắc đến đối thủ của mình trên bàn đàm phán là cố vấn đặc biệt của phái đoàn VNDCCH Lê Đức Thọ. Ông này thừa nhận Lê Đức Thọ là người có phong cách đàm phán uyển chuyển, sắc sảo.
Ông nhớ như in giây phút đầu tiên gặp nhà ngoại giao Việt Nam ngày 21/2/1970. Ông miêu tả Lê Đức
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ.
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ.
Thọ có mái tóc hoa râm, dáng vóc đường bệ, bao giờ cũng mặc bộ đại cán, đôi mắt mở to và sáng, ít khi để lộ suy nghĩ. Nhưng có một chi tiết mà không bao giờ thấy ông Kissinger nhắc đến trong hồi ký là chiếc nhẫn sáng bóng mà cố vấn Lê Đức Thọ luôn đeo trong mỗi lần thương thảo. Đơn giản, nó là chiếc nhẫn được gò từ mảnh xác máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc Việt Nam!
Câu chuyện về cái bàn đàm phán
Hội nghị Paris thực sự là cuộc "chạy việt dã" của các nhà ngoại giao Việt Nam. Ngay chuyện hình thù của chiếc bàn mà các đoàn sẽ ngồi đàm phán cũng khiến Hà Nội và Washington phải mất hàng tháng tranh cãi. Phía Việt Nam gọi là cuộc họp bốn bên còn phía Mỹ cứ khăng khăng đó là cuộc họp hai phía. Do sự khác biệt về khái niệm như vậy nên đã gây ra tranh cãi xung quanh cái bàn.
Cuối cùng cái bàn tròn được chấp nhận.
Việt Nam cho rằng đi vào đàm phán bốn bên, các đoàn phải được bình đẳng, độc lập với nhau. Hơn nữa, do yêu cầu đề cao vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN), Hà Nội đề nghị một bàn vuông, bốn đoàn ngồi bốn cạnh. Trong khi đó, phía Mỹ đưa ra nhiều "sáng kiến" để thể hiện khái niệm hai phía của họ. Lúc đầu họ đề ra cái bàn chữ nhật: phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngồi một bên, VNDCCH và MTDTGPMNVN ngồi một bên.
Tiếp đó Mỹ gợi ý ra ba kiểu bàn khác:
- Hai bàn hình cung đối diện, không tách rời nhau.
- Hai nửa vòng tròn đối diện, tách rời nhau.
- Hai nửa vòng tròn đối diện, ở giữa có khoảng cách, hai đầu có hai bàn chữ nhật cho thư ký ngồi.
Phía VNDCCH đề nghị lấy kiểu bàn thứ hai của Mỹ nhưng không tách rời mà ghép lại thành một bàn tròn. Hai bên cứ thế tranh cãi hết hai tháng cuối năm 1968 vẫn chưa ngã ngũ. Sang tháng giêng năm 1969 vẫn chưa quyết định được vì Mỹ vẫn cố nghĩ ra các kiểu bàn khác nhau để "nhấn" khái niệm đàm phán hai phía của họ. Cuối cùng hai bên đã đồng ý với gợi ý của đại sứ Liên Xô tại Pháp là Oborenko ngày 15/1/1969:
- Về cách sắp xếp chỗ ngồi: Sẽ là một bàn tròn phẳng lì, có hai bàn chữ nhật kê cách bàn tròn 0,45 mét đặt ở hai điểm đối diện nhau, dành cho thư ký.
- Không có cờ và biển của các đoàn trên bàn đàm phán.
- Thứ tự phát biểu sẽ được quyết định bằng cách nhờ nước chủ nhà Pháp rút thăm cầu may, phía nào thắng sẽ được phát biểu trước. Cuối cùng, để cho được việc và giải quyết cho xong vấn đề thủ tục, đoàn Việt Nam để Mỹ phát biểu trước nhưng nói rõ là không chấp nhận quan điểm "hai phía" của Washington.
Afghanistan từng được xem xét làm địa điểm đàm phán về Việt Nam
Tối 4/4/1968, sứ quán Mỹ tại Vientian, Lào, thông báo cho sứ quán Việt Nam là Washington đề nghị
Thủ đô Paris đã được chọn là nơi đàm phán.
Thủ đô Paris đã được chọn là nơi đàm phán.
cuộc tiếp xúc hai bên sẽ diễn ra tại Geneva, Thụy Sĩ. Việt Nam đề nghị lấy thủ đô Phnom Penh của Campuchia nhưng Mỹ không chấp nhận. Họ đưa ra gợi ý về bốn địa điểm khác là: New Delhi (Ấn Độ), Jakarta (Indonesia), Vientian (Lào) và Rangoon (Myanmar).
Hà Nội không đồng ý với địa điểm nào và đề nghị lấy Vacsava của Ba Lan làm nơi hội họp. Ban đầu, Mỹ chấp nhận nhưng sau đó họ khó chịu vì tin đó bị lộ ra ngoài và đưa ra một danh sách gồm 10 địa điểm khác: Kabul (Afghanistan), Colombo (Sri Lanka), Kathmandu (Nepal), Kuala Lumpur (Malaysia), Rawalpindi (Pakistan), Tokyo (Nhật Bản), Bruxelles (Bỉ), Helsinki (Phần Lan), Vienne (Áo) và Rome (Italy).
Cuộc trao đổi của hai bên về địa điểm tiếp xúc diễn ra gần một tháng trời đã thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế. Cuối cùng, ngày 2/5/1968, Việt Nam đề nghị lấy Paris làm nơi đàm phán. Mỹ chấp nhận.
Cờ giải phóng của Việt Nam cắm trên nóc Nhà thờ Đức Bà Paris
Nhà thờ Đức Bà Paris.
Nhà thờ Đức Bà Paris
Để chào mừng phái đoàn MTDTGPMNVN đến Paris dự Hội nghị, đêm ngày 19/1/1969 ai đó đã leo lên tòa tháp cao nhất của Nhà thờ Đức Bà Paris để treo lá cờ của mặt trận. Sớm hôm sau, rất nhiều người đã tập trung xung quanh nhà thờ để chiêm ngưỡng sự kiện có một không hai đó. Cảnh binh Pháp phải huy động cả trực thăng tới để gỡ lá cờ đi. Suốt mấy ngày sau, báo chí Pháp vẫn còn bàn tán về hình ảnh hi hữu nói trên.
Trước sự kiện này, chính quyền Sài Gòn tố cáo quân giải phóng đã "lợi dụng lòng mến khách của người Pháp để treo lá cờ làm ô uế thánh đường cao quý nhất nước Pháp". Nhưng vị giám mục có trách nhiệm tại Nhà thờ Đức Bà Paris lại tuyên bố, việc treo cờ đó không hề xâm phạm đến tín ngưỡng.
Cố vấn Mỹ khoái rượu nút lá chuối khô của Việt Nam
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ngày 8/2/1973 ông Henry Kissinger sang thăm Hà Nội. Ra đón
Ông Kissinger (phải) và Tổng thống Mỹ Nixon năm 1972.
Ông Kissinger (phải) và Tổng thống Mỹ Nixon năm 1972.
cố vấn Mỹ không phải ai khác chính là người quen biết cũ của ông: cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ. Ông đã đưa Kissinger tới thăm Viện bảo tàng lịch sử. Khi nghe giới thiệu dân tộc Việt Nam đã ba lần chiến thắng quân Nguyên, ông Kissinger thốt lên: "Với chúng tôi một lần đánh nhau với các ông cũng thấy là quá đủ!".
Trong bữa cơm tiễn, được thưởng thức thứ rượu nếp cái hoa vàng cất ở vùng quê Nam Định, cố vấn Mỹ Kissinger cứ gật gù mãi và sung sướng ra mặt khi cố vấn Lê Đức Thọ bảo thư ký tặng cho ông ta hai chai rượu trong văn vắt, nút lá chuối khô.
Đình Chính (st), vnexpress.net, ngày 25/1/03
NDVN, ngày 24/3/09